Hàng hóa TG tuần tới 6/9: Giá biên động, cà phê và dầu giảm, vàng tăng nhẹ

07/09/2014  

(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch cuối tuần 5/9 (kết thúc vào rạng sáng 6/9 giờ VN), giá biến động nhẹ. Dầu giảm giá bởi giới đầu tư giảm đặt cược vào mặt hàng dầu mỏ. Trong khi đó vàng tăng bởi hy vọng Fed sẽ tăng lãi suất.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu phiên cuối tuần giảm phiên thứ 2 liên tiếp khi giới đầu tư giảm rót tiền vào dầu mỏ khi căng thẳng ở Đông Âu hạ nhiệt, trong bối cảnh nguồn cung vẫn dồi dào.

 

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 10 trên thị trường New York giảm 1,16 USD (-1,2%) xuống 93,29 USD/thùng. Trong khi đó, giá dầu Brent tháng 10 trên sàn ICE giảm 1,01 USD (-1%) xuống 100,82 USD/thùng.

 

Cả hai loại dầu đều giảm giá mạnh từ giữa tháng 6 khi giảm lo ngại về khả năng xung đột chính trị làm giảm lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung.

 

Phiên giao dịch cuối tuần gần như không có tin tức đáng kể nào ảnh hưởng đến cán cân cung cầu, thậm chí báo cáo việc làm đáng thất vọng của Mỹ còn có tác động tiêu cực.

 

Nhà phân tích tại Citigroup, Tim Evans, cho biết nguồn cung dầu toàn cầu dồi dào đã khiến giới đầu tư bỏ đặt cược vào giá dầu tăng.

 

Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 giảm 1,65 cent (-0,6%) xuống 2,5834 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 10 giảm 1,7 cent (-0,6%) xuống 2,8192 USD/gallon.

 

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần tăng trở lại từ mức thấp nhất 11 tuần qua khi số việc làm thất vọng của Mỹ làm tăng đồn đoán Fed sẽ sớm tăng lãi suất. Tuy nhiên, đà tăng giá bị ngăn sau khi có tin Ukraine và phiến quân ly khai thân Nga đồng ý ngừng bắn. Đây được coi là bước đầu tiên để tiến đến việc chấm dứt xung đột tại miền đồng Ukraine – vấn đề đã gây ra sự bế tắc tồi tệ nhất giữa Moscow và phương Tây kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

 

Bộ Lao động Mỹ cho biết, số người được tuyển dụng trong tháng 8 tăng 142.000 người nhưng vẫn thấp hơn so với mức tăng 212.000 người của tháng 7 và ước tính 230.000 người của các chuyên gia.

 

Đây cũng là tháng đầu tiên trong 6 tháng qua có số người được tuyển dụng ở dưới ngưỡng 200.000 người. Việc này khiến Fed có thêm lý do để chờ đợi thêm trước khi quyết định tăng lãi suất.

 

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex tăng 80 cent lên 1.267,3 USD/ounce với khối lượng giao dịch giảm 10% so với mức trung bình 30 ngày.

 

Năm nay, giá vàng đã tăng 5,4% do nhu cầu tài sản trú ẩn tăng trong bối cảnh xung đột leo thang tại Trung Đông và Ukraine.

 

Với các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,6% lên 19,12 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,2% xuống 1.401,8 USD/ounce và giá palladium tăng 0,4% lên 887,25 USD/ounce.

 

Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm trên cả 2 thị trường London và New York. Cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 4,6 US cent/lb xuống 192,85 4,6 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 4,4 4,6 US cent/lb xuống 198, 4,6 US cent/lb, và kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 4,35 4,6 US cent/lb xuống 202,1 4,6 US cent/lb.

 

Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 8 USD, tương đương -0,39%, xuống 2.061 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 12 USD/tấn, tương đương -0,58%, xuống 2.079 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 12 USD/tấn, tương đương -0,57%, xuống 2.088 USD/tấn.

 

Dự đoán về sản lượng cà phê vụ mới của Brazil với sản lượng cà phê robusta ước đạt 17,3-17,5 triệu bao và cà phê arabica đạt 29-31 triệu bao. Báo cáo của Volcafe ra ngày 4/9 dự báo sản lượng cà phê Brazil đạt 47 triệu bao. Như vậy, cùng với lượng tồn kho khoảng 12 triệu bao cà phê arabica, nguồn cung cà phê của Brazil ước đạt 59-60 triệu bao.

 

Tuy nhiên, trừ khi sản lượng cà phê niên vụ tới của Brazil đạt trên 50 triệu bao, nguồn cung sẽ chắt chặt từ nửa cuối năm 2015 và nửa đầu 2016.

 

Cà phê Việt Nam giảm theo giá thế giới. Sáng nay 6/9 giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 200.000 đồng/tấn xuống 40-40,9 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay giảm 37 USD từ 2.051 USD/tấn hôm qua xuống 2.014 USD/tấn.

 

Bất chấp thời tiết bất lợi lúc đầu mùa, mùa mưa ở Ấn Độ đang trở lại và với mực nước hồ chứa ở 71%, thấp hơn so với 82% cùng kỳ năm ngoái, Ấn Độ cần có thêm mưa trong những tuần tới. Với dự báo những cơn mưa tuần tới sẽ có lợi cho vụ mùa mới tại Ấn Độ phát triển, sản lượng cà phê dự báo đạt 5,7 triệu bao với tỷ lệ robusta/arabica là 73/27.

 

8 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu cà phê của Ấn Độ khá thấp đạt 3,7 triệu bao, nhưng xuất khẩu được dự báo tăng trong quý IV năm nay khi khách hàng bắt đầu mua dự trữ cho mùa đông.

 

Trữ lượng lưu kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 4/9 tăng 5.155 bao lên 2.398.436 bao, trong khi số bao chờ đánh giá và phân hạng giảm 6.830 bao xuống 19.940 bao.

 

Trên thị trường ngũ cốc, giá ngô tăng trở lại do đồn đoán thị trường giao dịch với giá thấp nhất từ 2010 mà không tính đến mối nguy tiềm tàng do sương muối ở Bắc Mỹ.

 

Giá ngô giao tháng 12 trên sàn CBOT Chicago tăng 0,8% lên 3,4924 USD/bushel lúc 7h03. Hôm qua (4/9) giá giảm xuống 3,4375 USD, thấp nhất kể từ tháng 6/2010. Tuần này, giá đã giảm 4,2%.

 

Giá ngô năm nay giảm do viễn cảnh mùa vụ kỷ lục của Mỹ. Sản lượng ngô của Mỹ có thể đạt 14,595 tỷ bushel, INTL FCStone cho biết hôm 2/9, cao hơn ước tính tháng 8 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Cập nhật dự báo của USDA dự kiến được đưa ra vào 11/9.

 

 
 
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
93,29
-1,16
-1,2%
Dầu Brent
USD/thùng
100,82
-1,01
-0,99%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.560,00
-340,00
-0,51%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,79
-0,03
-0,68%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
258,34
0,00
0,00%
Dầu đốt
US cent/gallon
281,92
0,00
0,00%
Dầu khí
USD/tấn
854,75
-12,00
-1,38%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.820,00
-290,00
-0,35%
Vàng New York
USD/ounce
1.267,30
0,00
0,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.284,00
-3,00
-0,07%
Bạc New York
USD/ounce
19,16
0,00
0,00%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,50
-0,50
-0,77%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.409,75
+3,81
+0,27%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
889,63
+0,83
+0,09%
Đồng New York
US cent/lb
316,95
0,00
0,00%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.975,00
+45,00
+0,65%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
2.093,00
-12,00
-0,57%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.394,00
-4,00
-0,17%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.450,00
-50,00
-0,23%
Ngô
US cent/bushel
356,00
+9,50
+2,74%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
535,25
+5,00
+0,94%
Lúa mạch
US cent/bushel
345,00
+4,00
+1,17%
Gạo thô
USD/cwt
12,49
-0,03
-0,24%
Đậu tương
US cent/bushel
1.021,50
+18,25
+1,82%
Khô đậu tương
USD/tấn
349,10
+7,60
+2,23%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,48
+0,27
+0,84%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
422,00
+8,70
+2,11%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.102,00
-30,00
-0,96%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
198,05
-4,40
-2,17%
Đường thô
US cent/lb
15,00
-0,13
-0,86%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
149,05
+0,45
+0,30%
Bông
US cent/lb
64,31
-1,14
-1,74%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
332,10
0,00
0,00%
Cao su TOCOM
JPY/kg
198,00
+0,30
+0,15%
Ethanol CME
USD/gallon
2,01
+0,03
+1,36%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg

    Tên của bạn *
    Email người nhận *
    Thông điệp của bạn