Hàng hóa TG tháng 10: Dầu, vàng và cà phê giảm, ngũ cốc và kim loại cơ bản tăng

03/11/2014  

(VINANET) – Thị trường hàng hóa thế giới tháng 10 chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố: Kinh tế Mỹ tăng trưởng tích cực khiến chính phủ giảm dần các kích thích kinh tế, USD tăng giá, nguồn cung nhiều nguyên liệu dồi dào.

Năng lượng

 

Dầu giảm tháng thứ 4 liên tiếp do nguồn cung dồi dào và USD tăng giá so với các đồng tiền chủ chốt.

 

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 12 trên sàn New York phiên 31/10 (kết thúc vào rạng sáng 1/11 giờ VN) giảm 58 cent (-0,7%) xuống 80,54 USD/thùng. Khối lượng giao dịch thấp hơn 14% so với mức trung bình 100 ngày. Tuần cuối tháng 10, giá giảm 0,6% và tháng 10 giảm 12%. 

 

Giá dầu kỳ hạn đã giảm 25% từ mức đỉnh hồi tháng 6, và một số nhà phân tích cho rằng giá còn tiếp tục giảm trong năm 2015.
Giá dầu Brent cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 38 cent USD (-0,4%) xuống 85,86 USD/thùng. Khối lượng giao dịch thấp hơn 18% so với mức trung bình 100 ngày. Tính chung trong tuần giá giảm 0,3% và giảm 9,3% trong tháng 10.
 

 

Dầu Brent đã có 6 tuần liên tiếp giảm giá - dài nhất từ 2002 khi OPEC nâng sản lượng lên cao nhất 14 tháng trong bối cảnh dư cung. 

 

Sản lượng dầu OPEC tháng 10 chỉ giảm 120.000 thùng/ngày. Sản lượng giảm là bởi Angola và Nigeria. Nhìn chung sản lượng của khối này vẫn cao hơn khoảng 720.000 thùng/ngày so với mục tiêu 30 triệu thùng/ngày.

  

OPEC đánh tín hiệu sẽ không giảm sản lượng trong phiên họp diễn ra vào 27/11 tới. Giới thương nhân đang theo dõi diễn biến, nhất là vào tuần tới khi Arab Saudi công bố giá bán chính thức dầu thô trong tháng 12, Khi Arab Saudi hạ giá bán dầu tháng 11 vào đầu tháng 10, giá dầu giảm khi thị trường cho rằng giá dầu thấp hơn là tín hiệu cho thấy Arab Saudi đang quan tâm đến việc giữ thị phần thay vì giảm sản lượng để đẩy giá lên. Nếu Vương quốc này tiếp tục hạ giá bán, giá dầu sẽ chịu thêm áp lực.


Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hôm thứ Sáu đã thông báo tăng cường các biện pháp kích thích kinh tế. Ngay lập tức yen giảm giá trước tin này, trong khi USD tăng so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ. Dầu giao dịch bằng USD, do vậy, USD tăng giá sẽ khiến dầu trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng ngoại tệ.


Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 11 trên sàn Nymex giảm 2,63 cent (-1,2%) xuống 2,1695 USD/gallon. Hợp đồng giao tháng 11 đã đáo hạn. Trong khi giá xăng giao tháng 12 giảm 1,32 cent (-0,6%) xuống 2,1478 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 11 tăng 0,17 cent (+0,1%) lên 2,5145 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 12 tăng 0,59 cent (+0,2%) lên 2,5109 USD/gallon.

  

Kim loại quý

  

Phiên cuối tháng 31/10 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 1/11 giờ VN), giá vàng chạm mức thấp nhất 4 năm do USD tiếp tục tăng giá nhờ những số liệu kinh tế Mỹ tích cực cộng với việc Nhật Bản tăng cường kích thích kinh tế.

   

Giá vàng đã chọc thủng ngưỡng hỗ trợ 1.200 USD và 1.180 USD, xuống 1.171,6 USD/ounce (kỳ hạn tháng 12), giảm 4,8% trong tuần và giảm 3,3% trong tháng. Đây là tuần giảm giá mạnh nhất kể từ tháng 6/2013.

  

Vàng đã để mất gần 4,7% giá trị tính từ đầu tuần, ghi nhận mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 6/2013. Vàng cũng đang hướng tới tháng giảm giá thứ hai liên tiếp.

 

Giá vàng ngay ngay trên Kitco lúc 6h15 giờ Việt Nam đạt 1.172,9 USD/ounce, thấp hơn so với 1.198 USD lúc đóng cửa phiên giao dịch hôm thứ Năm 30/10.

 

Đầu phiên giao dịch hôm thứ Sáu 31/10, giá vàng giao ngay giảm 3% xuống 1.161,25 USD/ounce, thấp nhất kể từ tháng 7/2010. Sau đó, lúc 15h57 giờ New York, giá vàng giảm 2,25% xuống 1,171,1 USD/ounce, ghi nhận mức giảm hàng ngày lớn nhất kể từ tháng 7 năm nay.

 

Lý do giá vàng giảm mạnh vào phiên cuối tháng là USD mạnh lên sau khi BOJ nỗ lực giảm giá yen. Yen giảm xuống thấp nhất 7 năm so với USD hôm thứ Sáu 31/10 sau khi Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) khiến thị trường tài chính bị sốc với việc nới lỏng hơn nữa chính sách tài chính. Trong ngắn hạn vàng có thể giảm hơn nữa trong khi USD có thể tiếp tục tăng. Nhưng cuối cùng, vàng sẽ được hưởng lợi như tài sản trú ẩn an toàn trước những bất ổn kinh tế do hành động của các ngân hàng trung tạo ra, Jeffrey Sica, chủ tịch kiêm giám đốc phụ trách đầu tư Sica Wealth Management cho biết.

  

Trong phiên chiều 31/10, tại thị trường châu Á, giá vàng và bạc giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 2010, không chỉ chịu áp lực bởi những tín hiệu “sáng” phát đi từ nền kinh tế hàng đầu thế giới Mỹ và đồng USD lên giá mà còn bởi nhiều nhà đầu tư đẩy nhanh hoạt động bán ra để cắt lỗ càng khiến kim loại quý này sụt giá mạnh hơn.


Trên Sàn giao dịch điện tử Singapore, lúc 13 giờ 30 phút ngày 31/10 giờ Việt Nam giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.172,04 USD/ounce, trong cùng phiên đã có thời điểm giá kim loại quý này giảm hơn 2% xuống còn 1.168,66 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2010.


Sức mạnh của đồng bạc xanh được củng cố nhờ số liệu cho thấy GDP của Mỹ tăng 3,5% trong quý 3/2014, nhấn mạnh đà phục hồi ổn định của nền kinh tế.


Trước đó, sau cuộc họp chính sách hồi đầu tuần, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) bác bỏ những quan ngại về tình hình biến động trên thị trường tài chính, rủi ro giảm tốc ở châu Âu và triển vọng lạm phát yếu là các yếu tố có thể làm chậm tiến độ hướng tới mục tiêu cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát của cơ quan này.


Bình luận trên đã khiến nhà đầu tư rời bỏ vàng để tìm đến những kênh đầu tư sinh lời cao hơn.


Theo một thương nhân ở Hong Kong, nhà đầu tư bán tháo để cắt lỗ khi giá vàng rơi xuống dưới mức 1.180,5 USD/ounce. Điều đó kết hợp với việc đồng đồng USD lên giá mạnh so với đồng yen, càng gây áp lực lớn lên giá vàng.


Nhà phân tích kim loại quý Chen Min tại Jinrui Futures ở Thâm Quyến nhận định rằng trước triển vọng lạc quan của nền kinh tế Mỹ và kỳ vọng về việc Fed sẽ sớm nâng lãi suất, giá vàng có thể sẽ phá vỡ mốc 1.000 USD/ounce.


Lượng vàng nắm giữ của Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm thứ Năm 30/10 giảm 0,16% xuống 741,2 tấn, thấp nhất 6 năm qua.


Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,71% xuống 16,14 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,7% xuống 1.229,5 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 1,8% lên 788,5 USD/ounce.

 

 Cà phê, cacao và đường

  

Phiên cuối tháng, giá cà phê arabica tăng nhẹ 0,4 US cent hay 0,2% lên 1,88 USD/lb sau khi có lúc trong ngày xuống mức thấp nhất 1 tháng là 1,8565 USD.

 

Thị trường arabica đang trong giai đoạn tăng giảm bất thường theo những dự báo về thời tiết. Dự báo Brazil sẽ có mưa trong những ngày tới.

 

Tháng 10 có lúc arabica vọt lên mức cao kỷ lục 2 năm rưỡi. Tuy nhiên tính chung trong tháng 10 1rabica đã giảm 2,8% sau khi Brazil có mưa trong 2 tuần qua.

 

Robusta tăng 11 USD hay 0,5% phiên cuối tháng, chốt ở mức 2.048 USD/tấn.

 

Trên thị trường Việt Nam, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên sáng 1/11 tăng200.000 đồng/tấn lên 39,2-40,2 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 10 USD/tấn từ 2.013 USD/tấn hôm qua lên 2.023 USD/tấn.

 

Giá cà phê Việt Nam trong tuần tăng cùng với giá tăng trên thị trường toàn cầu mặc dù giao dịch khá chậm trước đỉnh vụ thu hoạch vào tháng 11, trong khi lượng tồn kho thấp khiến giao dịch tại Indonesia khá ảm đạm. 

 

Vụ cà phê 2014-2015 tại Việt Nam, nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới, dự đoán lên cao điểm sau 2 tuần nữa.


Việt Nam và Indonesia chiêm khoảng ¼ sản lượng cà phê robusta toàn cầu.

 

Phiên cuối tháng, giá cacao xuống mức thấp nhất 5 tháng rưỡi do USD tăn giá và nguồn cung dồi dào khiến các nhà đầu cơ bắt đầu bán tháo.

 

Cacao kỳ hạn 1 tháng tại New York giảm 47 USD hay 1,6% phiên cuối tháng, xuống 2.899 USD/tấn, sau khi có lúc xuống 2.888 USD/tấn – thấp nhất kể từ 19/5.

 

Tháng 10 giá cacao đã giảm 12%, là tháng giảm mạnh nhất kể từ tháng 11/2011. Hồi tháng 9 giá đã đạt mức cao nhất 3 năm rưỡi do lo ngại dịch ebola làm giảm cung mặt hàng này.

  

Đường kỳ hạn tại New York giảm giá 0,26 US cent phiên cuối tháng 10, xuống 16,04 US cent/lb cũng do USD mạnh và nguồn cung dồi dào. Tuy nhiên tính chung trong tháng 10 giá đã tăng 3,6%.

 
Cao su
 

Lần đầu tiên trong vòng 3 tháng, giá cao su đã tăng được 10,1% trong tháng 10, với cao su kỳ hạn tháng 4 tại Tokyo chốt ở 202,1 yen (1,82 USD0/kg.

 

Trong tháng 10 có lúc giá đã giảm xuống thấp nhất 5 năm là gần 173 yen. Mặc dù giá đã hồi phục song vẫn chưa có những dấu hiệu rõ ràng cho t hấy tinifh trạng dư cung đã kết thúc, trong bối cảnh nhu cầu của Trung Quốc vẫn không ổn định.

 
Ngũ cốc
 

Phiên cuối tháng 10 giá lúa mì giảm do triển vọng nguồn cung dồi dào sau khi Ủy ban Ngũ cốc Quốc tế nâng dự báo về sản lượng tháng thứ 5 liên tiếp.

 

Lúa mì kỳ hạn tháng 12 kết thúc ở 5,325 USD/bushel. Tuy nhiên, tính chung cả tháng giá vn tăng được 11%, mạnh nhaatsa kể từ tháng 3 bởi những lo ngại về thời tiết ở Australia và Nga.

 

Đậu tương kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 1,9% lên 10,925 USD/bushel, là tuần thứ 5 tăng giá, và tăng 15% trong cả t háng 10, tháng thứ 5 tăng giá và tăng mạnh nhất kể từ t háng 7/2012.

 

Khô đậu tương tăng 30% trng tháng 10, mạnh nhất kể từ tháng 7/1974.

 

Ngô kỳ hạn giao t háng 12 giá tăng 0,7 US cent lên 3,7675 USD/bushel phiên cuối tháng, tăng chung 17% trong tháng 10 và là tháng đầu tiên tăng kể từ tháng 4, nhưng tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2012.

 
Giá hàng hóa thế giới
 
Hàng hóa
ĐVT
Giá 1/10
Giá 31/10
Dầu thô WTI
USD/thùng
91,55 80,54
Dầu Brent
USD/thùng
94,24 85,86
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.630,00 60.550,00
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,12 3,87
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
244,64 218,50
Dầu đốt
US cent/gallon
266,22 251,09
Dầu khí
USD/tấn
804,75 741,25
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
79.700,00 72.480,00
Vàng New York
USD/ounce
1.205,90 1.171,60
Vàng TOCOM
JPY/g
4.261,00 4.226,00
Bạc New York
USD/ounce
16,89 16,11
Bạc TOCOM
JPY/g
60,00 58,20
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.285,50 1.236,50
Palladium giao ngay
USD/t oz,
770,25 792,48
Đồng New York
US cent/lb
300,35 304,70
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.667,00 6.695,00
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.960,00 2.039,00
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.288,00 2.307,00
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
20.310,00 19.680,00
Ngô
US cent/bushel
319,00 376,75
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
474,25 532,50
Lúa mạch
US cent/bushel
335,50 336,25
Gạo thô
USD/cwt
12,75 12,29
Đậu tương
US cent/bushel
908,25 1.049,25
Khô đậu tương
USD/tấn
296,80 389,00
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,38 34,80
Hạt cải WCE
CAD/tấn
394,10 439,00
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.300,00 2.899,00
Cà phê Mỹ
US cent/lb
193,35 188,00
Đường thô
US cent/lb
16,45 16,04
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
144,75 138,85
Bông
US cent/lb
61,29 64,45
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
- -
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
333,20 324,10
Cao su TOCOM
JPY/kg
178,70 199,90
Ethanol CME
USD/gallon
3.300,00 1,74
 
T,Hải
 

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg

    Tên của bạn *
    Email người nhận *
    Thông điệp của bạn